Phát triển nhanh, kém bền vững
Dăm gỗ là một trong những mặt hàng xuất khẩu nhiều nhất của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu dăm năm 2017 đạt trên 1 tỉ USD, tương đương với 8,2 triệu tấn dăm khô, chiếm 15% trong tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và lâm sản. Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc là ba thị trường nhập khẩu dăm gỗ của Việt Nam nhiều nhất, với lượng dăm nhập khẩu vào các thị trường này chiếm trên 90%.
Kể từ năm 2012 Việt Nam đã vượt qua Úc trở thành quốc gia xuất khẩu dăm gỗ lớn nhất thế giới. Trong đó thị trường Trung Quốc chiếm tỉ trọng lớn nhất, khoảng 60% trong tổng kim ngạch và lượng dăm xuất khẩu của cả nước. Ngành chế biến và xuất khẩu dăm gỗ trong nước liên tục mở rộng. Số lượng nhà máy chế biến dăm tăng từ 47 nhà máy năm 2009 lên 130 nhà máy năm 2016. Lượng dăm gỗ xuất khẩu bình quân lên tới 7-8 triệu tấn dăm khô, tương đương 14-16 triệu m3 gỗ quy tròn, hầu hết là gỗ keo từ rừng trồng. Khoảng 90% nguyên liệu làm dăm gỗ là từ gỗ keo/tràm. Các nguồn nguyên liệu còn lại là bạch đàn, gỗ cao su. Keo/tràm là loài gỗ được sử dụng nhiều nhất trong nguyên liệu dăm.
Dăm gỗ là mặt hàng tiêu thụ nguyên liệu nhiều nhất, chiếm hơn một nửa nguyên liệu toàn ngành gỗ sử dụng. Trước năm 2010, mỗi năm Việt Nam chỉ xuất khẩu 3-4 triệu tấn dăm. Từ 2014, do nguyên liệu gỗ nhỏ của rừng trồng trong nước tăng và giá xuất tăng VN xuất 8 triệu tấn/năm, với 60% sản lượng xuất sang thị trường Trung Quốc. Không thể phủ nhận công nghiệp băm dăm tạo động lực cho trồng rừng và thu nhập ngắn ngày cho nông/lâm dân, nâng diện tích rừng trồng thương mại của Việt Nam đạt gần 3 triệu ha.
Khai thác rừng tại Huế
Tuy nhiên, đa phần ý kiến cho rằng xuất khẩu dăm đem lại các lợi ích thấp cho nguồn gỗ rừng trồng, do vậy cần nên hạn chế. Sự phát triển của ngành dăm làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn nguyên liệu gỗ lớn cho ngành chế biến gỗ. Lâm dân có tâm lý ăn sổi, thu hoạch cây non, đường kính nhỏ ở độ tuổi 3-4 năm, giá trị thấp, thay vì kéo dài đến 8-10 năm để tạo nguồn gỗ lớn.
Năm 2017, ngành gỗ VN sử dụng khoảng 32 triệu m3 gỗ, trong đó rừng trồng trong nước cung ứng được 24 triệu m3, còn lại nhập khẩu. Năm 2016, Chính phủ quyết định áp dụng mức thuế xuất khẩu 2% với dăm. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho can thiệp thông qua công cụ thuế không hiệu quả. Các con số về lượng và kim ngạch xuất khẩu trong những năm qua cho thấy rất rõ ràng ngành dăm vẫn tiếp tục mở rộng.
Hiệu quả thấp từ "bán lúa non"
Các chuyên gia nhận định, nếu không thay đổi, ngành gỗ sẽ khó có khả năng tồn tại một cách bền vững, mà nguyên nhân lớn nhất là việc khai thác nguyên liệu non, đường kính nhỏ để băm dăm ảnh hưởng nghiêm trọng đến chiến lược nguyên liệu ngành và môi trường. Theo ông Ngô Sỹ Hoài (Phó Tổng thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam - VIFORES), ngành chế biến gỗ và lâm sản xuất khẩu Việt Nam đứng trước sự cần thiết phải chuyển dịch sản xuất và tái cấu trúc, xuất dăm gỗ làm bột giấy là minh chứng. Phát triển xuất khẩu dăm gỗ không phải là hướng đi bền vững, mang lại giá trị cao cho Việt Nam.
Ông Hoài phân tích: “để có được 8 triệu tấn dăm xuất khẩu hiện nay cần đến 16 triệu m3 gỗ. Với giá xuất khẩu hiện nay 121 USD/tấn tại Trung Quốc và 124 USD qua Nhật, Việt Nam cũng chỉ thu được trên dưới 1 tỉ USD. Với giá đầu ra như vậy, DN xuất khẩu dăm dù có yêu quý nông dân đến mấy cũng chỉ thu mua gỗ keo với giá 1-1,2 triệu đồng/tấn gỗ tùy kích thước, non hay già. Sau khi nộp thuế xuất khẩu 2%, DN cũng chỉ còn lại 1-2% lãi.
Trong khi đó, năm 2017, với mặt hàng ghế ngồi chỉ sử dụng 3,2 triệu m3 quy tròn (bằng 1/5 nguyên liệu băm dăm) đã xuất khẩu được 1,2 tỉ USD. Dĩ nhiên, nguyên liệu băm dăm khác nguyên liệu làm ghế”. Nhìn tổng thể mức tăng 12% của ngành gỗ là phát triển dựa trên gia tăng đầu vào chứ không phải chiều rộng, chiều sâu, mẫu mã hay công nghệ. Đại diện một DN ngành chế biến gỗ than thở: “ở một địa phương có truyền thống làm nghề gỗ như Quy Nhơn phải đi nhập gỗ keo/tràm từ Indonesia, Malaysia với giá trên 200 USD/m3 trong khi rừng keo bạt ngàn ở đây chỉ để phủ xanh và thu hoạch cây non, đường kính nhỏ để băm dăm bán cho Trung Quốc với giá chỉ hơn 100 USD/tấn. Nghịch lý hơn nữa, cũng là sản phẩm từ keo/tràm nhưng được nhập về thì giá 2.000 USD/m3 tinh chế, tương đương 3.000 USD/tấn.
Theo các DN, giá dăm trong nước nhiều năm qua liên tục giảm, ít tăng đột biến. Giá dăm gỗ giảm không chỉ tác động trực tiếp đến hình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp dăm Việt Nam mà còn làm ảnh hưởng tới hàng nghìn hộ trồng rừng, là những người cung nguyên liệu cho ngành dăm.
Nguyên nhân được chỉ thẳng thắn là các DN Trung Quốc mua dăm tại Việt Nam câu kết, dìm giá bán của các DN chủ nhà. Thêm vào đó, chất lượng dăm gỗ của Việt Nam hiện vẫn chưa được kiểm soát. Một số DN sản xuất dăm có chất lượng kém gây ra “con sâu làm rầu nồi canh” tạo cơ hội cho người mua dăm đưa ra các yêu cầu giảm giá. Nguồn cung dăm trên thế giới với chất lượng cao có xu hướng tăng, đặc biệt là tại Úc. Trong khi đó, giá dăm gỗ trên thị trường thế giới có xu hướng giảm. Giá dăm gỗ của Việt Nam xuất khẩu vào các thị trường chính như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc luôn thấp hơn từ các đối thủ cạnh tranh trực tiếp: Úc, Chi lê và Thái Lan.
Ưu tiên phát triển rừng gỗ lớn giá trị cao thay vì bán dăm
Ông Ngô Sỹ Hoài đặt vấn đề: “Câu hỏi đặt ra là liệu Việt Nam có tiếp tục chấp nhận là nhà cung cấp dăm giá rẻ nuôi sống ngành công nghiệp giấy của nhiều nước hay không? Liệu ngành lâm nghiệp có nên tiếp tục với mô hình trồng-khai thác trong 4-5 năm hay không? Chuyên gia nước ngoài đã nhận xét Việt Nam đang bán lúa non chứ không phải làm lâm nghiệp. Trên phạm vi toàn cầu, nhu cầu nguyên liệu giấy không tăng, thậm chí giảm. Tức là càng xuất khẩu dăm gỗ, chúng ta càng tự làm khó mình”.
Tác giả bài viết: DONA JSC TỔNG HỢP
Nguồn tin: donajsc.com
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn